Để duy trì sự sống, ăn uống luôn là việc quan trọng số một. Tuy nhiên, quan niệm và thói quen ăn uống của con người về vấn đề này hoàn toàn khác nhau, không ai giống ai. Đối với người Việt Nam, xuất phát từ nếp sống nông nghiệp thì ăn quan trọng lắm. Vì “có thực mới vực được đạo”, nó quan trọng tới mức “trời đánh còn tránh bữa ăn”, mọi hành động của người Việt đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn tiêu, ăn ngủ, ăn nằm, ăn cắp, ăn trộm…
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng: vì mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn. Đây là biểu hiện cao trong đời sống cộng đồng của người Việt. Nó đòi hỏi người ăn đừng ăn quá nhanh, quá chậm; đừng ăn quá nhiều song cũng đừng quá ít; đừng ăn hết mà cũng không nên ăn còn. Do vậy, hiện tượng sau khi ăn, trong đĩa bày thức ăn lúc nào cũng còn dư thức ăn, còn thức ăn trong chén của mọi người đều đã được ăn hết. Thói quen ăn này phản ánh khi ăn cơm khách, một mặt khách phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, nhưng mặt khác lại phải để chừa một ít trong các đĩa đồ ăn để chứng tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn. Mặt khác, ăn nhanh biểu thị là người vội vàng, thô lỗ, ăn chậm khiến người ta phải chờ, ăn nhiều, ăn hết là tham lam, ăn ít, ăn còn là chê không ngon… Truyện dân gian thường phê phán những người vô ý khi ăn và có nhiều cảnh dùng bữa ăn để kén rể. Do vây, mà ông bà ta rất chú trọng và nghiệm khắc khi dạy con cái: ” học ăn, học nói, học gói, học mở”. Trong đó giáo dục cách ăn được ưu tiên hàng đầu vì thông qua cách ăn người ta có thể nhận xét và kết luận ít nhiều về nhân cách cá nhân đó và cả gia đình của họ.
Phải có chén nước mắm (hay nước tương) khi ăn. Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt, trong khi các món ăn khác thì có người ăn, người không, còn cơm và nước mắm thì ai cũng dùng, cũng chấm. Do vậy, chén nước măm trở thành thước đo sự ý tứ, đo trình độ văn hóa của con người. Chấm nước mắm phải cho gọn, sạch, không nhiễu, chấm vương vãi là thể hiện con người vụng về, ẩu tả, chấm nước mắm mà để rơi thức ăn vào chén nước mắm là mất vệ sinh, ở dơ, ở bẩn, chấm hụt (hai, ba lần chấm mới được) là người không làm được việc, hay sai sót, không nên tin tưởng..
Không bới cơm nhiều hoặc quá ít vào mỗi chén. Chủ nhà ngồi đầu nồi phải rất tế nhị và mực thước khi bới cơm cho khách. Nhiều quá thì đầy dễ rơi, vãi, (khiến khách mang tiếng vụng về) và không có chỗ để thức ăn; ít quá thì ăn mau hết, phải đưa bới nhiều lần (khiến khách mang tiếng tham ăn). Thấy cơm trong nồi sắp hết, phải giảm tốc độ ăn của mình và người nhà (bới ít), tránh không để đũa cái va vào nồi, phải làm cho khách thấy đầy đủ, thoải mái nhất.
Sử dụng đũa khi ăn: đây là cách ăn phổ biến của người Châu Á. Nó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ những thói quen ăn những thứ không thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào được (như cơm, cá, nước mắm…) của cư dân Đông Nam Á. Trong khi đó, người phương Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm dao, muỗng, đĩa (mô phỏng động tác của con thú xé mồi), mỗi thứ thực hiện một chức năng riêng lẻ (sản phẩm của tư duy phân tích). Đôi đũa của người Việt thực hiện một cách tổng hợp và rất linh hoạt hàng loạt chức năng khác nhau: gắp và xé, dầm, khoắng, trộn, vét và nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn xa!
Cuộc nghiên cứu mới nhất của Công ty Ogilvy & Mather châu Á – Thái Bình Dương về chế độ ăn uống tại 14 quốc gia trong khu vực (có Việt Nam) đã đưa ra nhận định: Thói quen ăn uống của người tiêu dùng đang thay đổi, có xu hướng thích sử dụng đồ hộp, thực phẩm chế biến, các loại thức ăn nhanh…
Ông David Elworth, Giám đốc kế hoạch, phụ trách khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Công ty Ogilvy & Mather, phát biểu tại cuộc hội thảo “Những xáo trộn về thói quen ăn uống” được tổ chức tại TP HCM ngày 4/12: Do thời gian công việc quá bận rộn, người tiêu dùng thường tìm đến những quán xá bán thức ăn nhanh, nên không thể có được một bữa ăn đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng. Trong các cuộc phỏng vấn gần 400 người tiêu dùng Việt Nam, có đến 35% người ăn tại quán hơn 3 lần/tuần (TP HCM: 51,4%, Hà Nội 18,6%); 50% người cho biết họ ăn lặt vặt suốt cả ngày thay vì trước đây chỉ ăn 3 bữa ăn chính. Trong khi đó đến 70% trẻ em cũng ăn uống không điều độ. Nguyên nhân của tình trạng trên là vì không có thời gian lựa chọn, mọi người thường ngại tìm hiểu các món ăn lạ nên thường chọn đồ ăn nhanh, thức ăn sẵn có bày bán khắp nơi.
Cách ăn thiếu khoa học của người Việt Nam: Lời cảnh báo đến muộn
Người Việt Nam lâu nay có thói quen “Ăn theo tiếng gọi của dạ dày chứ không ăn theo chế độ dinh dưỡng”. Đó là lời nhận định của các chuyên gia dinh dưỡng về cách ăn uống thiếu khoa học hiện nay của số đông người dân.
Vì sao những lời cảnh báo này không được đưa ra sớm hơn, để bệnh tật không gia tăng đến chóng mặt như hiện nay?
Sau nhiều năm trời phải ăn uống kham khổ do thiếu thốn, nay không ít người đã có suy nghĩ phải ăn uống thoải mái để bù lại những ngày tháng khổ cực đó. Bữa ăn ngày trước chỉ có cơm với rau. Thịt, cá là thức ăn quá “xa xỉ”. Vậy mà, hơn 5 năm trở lại đây, nền kinh tế thay đổi, dịch vụ phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng lên rõ rệt đã làm biến đổi nhanh chóng cách ăn uống của người dân.
Từ chỗ ăn rau cho no bụng thì nay đổi sang ăn thịt, chất béo, chất đạm là chính. Nhìn từ góc độ xã hội, đó là sự thay đổi của thời đại văn minh, nhưng dưới cái nhìn của những nhà dinh dưỡng thì đó là sự báo động về cách ăn thiếu khoa học. GS. Hà Huy Khôi – Chủ tịch Hội Dinh dưỡng VN – cho rằng: Họ ăn nhiều thịt, chất béo, thức ăn nhanh và nguồn glucid tinh chế (đường ngọt)…, mà không biết rằng như thế là không tốt cho sức khoẻ”.
Một điều tra về tiêu thụ lương thực, thực phẩm và tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam trong 20 năm qua – mới được Viện Dinh dưỡng công bố – đã làm rõ sự thật: Người VN đã có “một bữa no” đến quá mức. Lượng tiêu thụ thịt, chất béo ở người trưởng thành đã tăng lên rất nhanh, năm 1987 chỉ là 24,4 g/người/ngày đã lên tới 62 g/người/ngày năm 2005. Dầu mỡ cũng tăng từ 3 g/người/ngày lên 15,2 g/người/ngày…
Trong khi đó, thức ăn là cá và các loại hải sản chỉ dừng ở mức 50 g/người/ngày trong suốt 20 năm. Rau là thức ăn rất tốt cho sức khỏe lại có xu hướng giảm đi, từ 214 g/người/ngày xuống còn 203 g/người/ngày…
TS. Nguyễn Công Khẩn – Viện trưởng Viện Dinh dưỡng – đã chỉ ra những bất cập trong thói quen ăn uống của người VN là ăn uống không điều độ, ăn theo sở thích. Đáng lẽ phải ăn nhiều rau, giảm ăn thịt thì chúng ta lại ăn nhiều thịt mà ít rau.
Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi người mỗi ngày cần ăn 300 g rau thì người VN chỉ ăn có 100 g, cần ăn 100-200 g cá thì chúng ta cũng chỉ ăn có 50 g. Một cách ăn tai hại nữa là ăn quá nhiều muối, khuyến nghị chỉ ăn 6 g muối/người/ngày thì lại ăn đến hơn 20 g muối…
Tưởng rằng, miếng ăn chỉ đơn giản là thoả mãn khẩu vị, ý thích mà không mấy ai biết rằng bệnh vào từ chính miếng ăn. Trước năm 1995, bệnh thừa cân, béo phì chỉ là chuyện ở các nước phương Tây. Nhưng ngay những năm sau đó, thừa cân, béo phì đã xuất hiện và gia tăng không ngừng.
Năm 2000, tỉ lệ béo phì ở người trưởng thành ở Hà Nội và chúng tôi là 10%, đến 2005 tỉ lệ này trong cả nước đã tăng lên 16,3%. Hội chứng chuyển hoá lần đầu tiên được điều tra cũng đã phát hiện có hơn 13% người mắc. Tăng huyết áp đã tăng lên 23%, số người đột quỵ tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước và người bị nhồi máu cơ tim tăng gấp 6 lần so với thập kỷ 60. Đái tháo đường cũng lên tới 5% số người mắc…
Có một thực tế rất rõ ràng rằng, cách ăn của người VN – đặc biệt là những người ở thành phố – đã thay đổi từ 5-10 năm nay. Sự chuyển đổi này hoàn toàn theo hướng tự phát mà không hề có sự tư vấn, hướng dẫn của các chuyên gia dinh dưỡng. Đến bây giờ, Viện Dinh dưỡng mới chỉ ra những cách ăn uống bất hợp lý liệu có phải là những lời khuyến cáo quá muộn màng chăng
Sự thay đổi thói quen ăn uống trong 20 năm trở lại đây
Việt nam trong giai đoạn sau giải phóng (1975) và trước công cuộc “đổi mới” năm 1986 lâm vào tình cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm một cách nghiêm trọng, là một quốc gia nghèo đói trong khu vực luôn cần đến sự viện trợ từ những người bạn quốc tế, đặc biệt là các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Lương thực chủ yếu là cơm (gạo), trong khi đó năng suất trồng lúa rất thấp, có nơi chỉ 1,5 tone/ha.
Người dân phải sử dụng thêm các nguồn lương thực khác từ: ngô, khoai, sắn, hạt bo bo,…thậm chí sử dụng các lương thực kém chất lượng. Trong giai đoạn đó, với cơ chế tập trung, bao cấp, không cho phép tồn tại kinh tế cá thể, việc giao thương chỉ xảy ra trong khu vực quốc doanh, cung không đủ cầu, dẫn đến tình trạng khan hiếm mọi nhu yếu phẩm, trong đó có thực phẩm. Nhiều người đã sống qua thời kỳ đó đều không khỏi rùng mình mỗi khi nhớ lại. Người ta gọi nó là: thời kỳ bao cấp. Khi tôi lớn lên thì thời kỳ đó đang lùi dần, bóng dáng của sự thiếu thốn và lạc hậu vẫn còn đó, trẻ con nông thôn quê tôi đến 10 tuổi lên thành phố mới nhìn thấy quả dưa hấu thật (trước đây chỉ xem trong sách tập đọc). Như vậy, bạn có thể hình dung được trong giai đoạn đó, tình hình dinh dưỡng của Việt Nam như thế nào. Và người dân khi đó không hề biết đến có một loại bệnh gọi là bệnh ĐTĐ tồn tại!!! (cũng không thể không kể đến sự chậm phát triển về y tế và giáo dục cũng là nguyên nhân của sự vô tình này).
Trong một buổi nói chuyện với chúng tôi Tạ Văn Bình, chúng tôi có hỏi ông: Vì sao tại khu vực nông thôn, người dân vẫn phải lao động chân tay nhiều, vẫn còn một tỷ lệ nhất định những gia đình nghèo đói mà tỷ lệ ĐTĐ không phải là nhỏ? Câu trả lời chúng tôi nhận được đó là do tốc độ của sự thay đổi chất lượng cuộc sống quá nhanh trong một thời gian ngắn. Người nông dân từ chỗ thiếu đói đến đầy đủ rồi dư thừa lương thực, thực phẩm diễn ra trong một thời gian ngắn, chỉ một vài năm. Bên cạnh đó, cơ hội cũng như năng lực tiếp cận với kiến thức về dinh dưỡng và y tế với người nông thôn còn kém. Ngoài các thời điểm mùa màng, người nông dân phải lao động tương đối vất vả thì thời gian còn lại hầu hết là nhàn rỗi. Nếu ở thành phố người ta tập trung ở nhà hàng, quán bia thì nông thôn có các quán rượu nhỏ hoặc người ta tập trung nhau đến một nhà nào đó, với những gì có sẵn trong vườn, trong kho, sẽ có những buổi nhậu lai rai đến hết ngày và sử dụng hàng lit rượu Việt nam (45 0).
Ảnh hưởng của những điều này đến tình hình bệnh ĐTĐ của Việt Nam.
điều đó được l ý giải bởi thực tế rằng các yếu tố nguy cơ ở nông thôn ít hơn thành thị. Với các ưu điểm: không khí trong lành, thức ăn tự trồng và chăm sóc nên an toàn và tươi ngon hơn, những người nông thôn hầu hết đều có bản tính chăm chỉ lao động, tính chất công việc cũng nặng nề hơn (làm vườn, chăn nuôi, trồng cấy,…). Chính vì vậy, so với thành thị, tỷ lệ người bệnh ĐTĐ thấp hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, làm thế nào để vẫn đảm bảo dưỡng chất cho cơ thể khỏe mạnh và vẫn nhanh, tiện dụng? Đó chính là điều mà các bạn trẻ rất quan tâm hiện nay.
Thói quen ăn uống mới của giới trẻ Việt và sữa chua YoMost
Uống sữa chua YoMost mỗi ngày để khỏe và đẹp
Đã từ lâu sữa chua lên men được biết đến như là một loại thực phẩm mang lại rất nhiều lợi ích về sức khỏe, đặc biệt là tốt cho tiêu hóa, tăng khả năng hấp thụ dưỡng chất của cơ thể, nên giúp tăng cường sức đề kháng và tốt cho da. Sữa chua YoMost là một loại sữa chua ở dạng uống, được làm từ sữa chua lên men nên chứa nguyên vẹn các lợi ích cho sức khỏe kể trên. Đặc biệt, sữa chua YoMost còn kết hợp với nước trái thật, ít đường và ít béo cho nên giúp các bạn gái giữ gìn vóc dáng khỏe mạnh, cân đối và làn da mịn màng, tràn đầy sức sống.
Thêm vào đó, vì là dạng uống và được thiết kế đơn giản với hộp giấy hiện đại, sữa chua YoMost không chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng mà còn đáp ứng cả nhu cầu nhanh và tiện dụng của các bạn trẻ.
Với ba hương vị được yêu thích: Dâu ngọt ngào, Cam sôi nổi, Chanh dây trẻ trung cùng với vị “cực kool” khi dùng lạnh, sữa chua YoMost đã và đang “thăng hoa” trong các bữa ăn ngoài ở mọi lúc, mọi nơi của các bạn.
Sữa chua YoMost:
– Được làm từ sữa chua lên men, sữa chua YoMost chứa tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết từ sữa chua, tốt cho hệ tiêu hóa và sức khỏe.
– Có vị ngon tuyệt và tự nhiên hơn với sự kết hợp độc đáo của sữa chua lên men và nước trái cây.
– Sữa chua YoMost ít đường và ít béo.
– Dùng sữa chua YoMost mỗi ngày, từ 2 đến 3 hộp, giúp bạn tăng cường tiêu hóa, cơ thể khỏe mạnh và từ đó có tinh thần thoải mái, dáng vẻ đầy sức sống.
– Sữa chua YoMost có 3 hương vị: Sữa chua Dâu, Sữa chua Cam, và Sữa chua Chanh dây.
Hà Nội là trung tâm của đất nước, ngay dưới thời Pháp thuộc, đã từng là nơi quy tụ tinh hoa của cả nước. Trí thức văn nghệ sĩ khắp nơi, muốn lập nghiệp đều tìm về Hà Nội. Có biết bao nhà văn, nhà thơ, nhà báo, được coi là người Hà Nội, nhưng họ đâu phải sinh ra và lớn lên ở đây. Ấy vậy mà tinh hoa ẩm thực của cả nước lại không tìm Hà Nội làm nơi tụ hội. Người các nơi khác đến đây, buộc phải thưởng thức những món ăn của Hà Nội, chứ tìm đâu thấy bún bò Huế, mì Quảng của Quảng Nam, hủ tiếu của Sài Gòn chưa nói đến hủ tiếu Nam Vang! Bánh xèo Nam bộ thì gần đây mới có, nhưng chỉ là những quán bình dân bán dọc vỉa hè, không có những cửa hàng đàng hoàng và bánh khoái Huế lại càng không có. Nhớ lại trong những năm chiến tranh, khi người miền Nam tập kết có mặt rất đông ở Hà Nội, mỗi khi nghe thấy ở Câu lạc bộ Thống Nhất có bán chè hay bún theo kiểu miền Nam thì người ta đổ xô đến để mong được tìm lại đôi chút hương vị quê hương. Vậy mà không bao giờ xuất hiện một nhà hàng nào chịu chế biến các món ăn miền Nam ở Hà Nội! Thậm chí đến tháng 4/1999, Hội đồng hương Thừa Thiên – Huế tổ chức một tuần lễ Văn hóa Huế tại Hà Nội, trong đó không thể không có một góc ẩm thực. Nếu Hà Nội thường xuyên có những quán ăn Huế thì đã không có cảnh những người Huế từ các tỉnh đem theo cả con cháu lặn lội về tận đây xếp hàng để được thưởng thức một chút hương vị của bánh bèo, bánh nậm… mà họ hằng ao ước. Hiện tượng này được giải thích như thế nào? Có phải do tính bảo thủ trong ăn uống của người Hà thành không? Cái đó để bạn đọc suy nghĩ thêm.
Quay sang các nước châu Âu, lật một cuốn sách của Pháp dạy cách làm các món ăn trên thế giới, khi nói đến món nọ món kia của châu Phi hay châu Á, người viết luôn nói rằng ở Paris chúng ta chỉ có thể tìm được những gia vị thay thế như thế này thế nọ, chứ không thể có được đầy đủ những gia vị như ở nước quê hương của các món ăn đó. Vì vậy chỉ có thể nấu một món ăn gọi là của Việt Nam, gọi là của Ấn Độ, hay của Bắc Phi, chứ không thể tạo lại hoàn toàn món ăn của xứ sở đó trên đất Pháp. Ví dụ nấu món Rập, nhưng ở Pháp thì giá rất đắt và hiếm. Còn ở Việt Nam ta, bột cari chủ yếu được chế biến từ bột nghệ chứ lấy đâu ra couscous của người Bắc Phi, nhiều đầu bếp Pháp phải dùng bột nghệ thay cho safran, là một thứ gia vị màu vàng phổ biến ở các nước Ả safran, cho nên ăn cari ở nước ta khác hẳn cari Ấn Độ hay các nước hồi giáo khác ở Đông Nam Á. Như vậy, dù không có chủ ý, người nấu tự nhiên phải thay đổi một vài khẩu vị khi đem món ăn đó ra nước ngoài. Một thanh niên Việt Nam có nhiều cửa hàng ăn ở Cộng hòa Liên bang Đức đã từng nói với tôi rằng: bên đó cơm Việt Nam rất được khách hàng ưa chuộng, nhưng khi làm cơm rang, phải chiều theo khẩu vị của một bộ phận người nhập cư rất đông là Thổ Nhĩ Kỳ, cho nên phải rắc bột nghệ (chính ra là dùng safran) để có màu vàng như cơm của người Hồi giáo.
Do vậy nói đến giữ gìn bản sắc ăn uống của dân tộc, là nói đến việc giữ gìn những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật ẩm thực dân tộc, chứ không phải là phục hồi lại nguyên vẹn các món ăn xưa, theo đúng khẩu vị xưa. Vì ngay trong một vùng, việc ăn uống cũng biến đổi theo thời gian, chứ chưa nói đưa ra nước khác. Trong ” Hà Nội băm mươi sáu phố phường (1943), nhà văn Thạch Lam đã từng viết: Chắc nhiều bạn đọc còn nhớ cái thứ bánh đậu Hải Dương, đã nổi tiếng, mà ngày bé, chúng ta thường nhận được do tay bà mẹ đã đi đâu một chuyến xa về? Cái thứ bánh đậu khô, bột nhỏ như phấn, đóng hình vuông, có in dấu một hai chữ triện. Thuở nhỏ, chúng ta thích ăn thức quà ấy lắm, nhưng nếu chúng ta mắc bệnh ho, thì không khỏi lắm lúc bực mình. Miếng bánh vừa bỏ mồm chưa kịp nuốt, một cơn ho đã làm bật ra ngoài như làn khói… Mắt chỉ còn tiếc ngẩn ngơ nhìn.
Bây giờ thứ bánh đậu Hải Dương ấy không còn nữa. Có lẽ người ta thấy cái bất tiện của bột khô cho các trẻ bé và cho các ông cụ già. Ở Hà Nội, người ta làm một thứ bánh đậu ngon hơn, đó là một thứ bánh đậu ướt, thứ bánh đậu có mỡ. Một thứ bánh để ăn trong khi uống chè Tàu, cái vị béo ngọt của bánh rất ăn với cái vị đắng của nước chè. ”
Nghiên cứu được tiến hành với Mục tiêu: Đánh giá thực trạng khẩu phần, thói quen ăn uống của người tăng acid uric máu và bệnh nhân gout. Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang, mô tả có phân tích. Đối tượng nghiên cứu: 150 người mắc bệnh gout từ 40 đến 70 tuổi (ít nhất có hai đợt điều trị gout cấp). 150 người không bị gout (bình thường) – có acid uric máu trong giới hạn bình thường. 50 người từ 40-70 tuổi có acid uric máu tăng. Kết quả cho thấy:
1 Nhóm tăng acid uric máu có tần xuất tiêu thụ hàng ngày và trên 3 lần/tuần các thực phẩm giàu purin như phủ tạng, bia/rượu nhiều hơn nhóm người không bị bệnh (p<0,05).
-Nhóm tăng acid uric máu có mức tiêu thụ trung bình/ngày về cá, hải sản, bia/rượu nhiều hơn nhóm chứng (không tăng acid uric máu) có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm của nhóm tăng acid uric máu và nhóm không bị bệnh , khác nhau không có ý nghĩa thống kê về gạo, lương thực khác, thịt, trứng/sữa, đậu đỗ, đậu phụ, vừng/lạc, dầu/, mỡ, rau xanh, quả chín.
2. Nhóm bệnh gout có tần xuất tiêu thụ trên 3 lần/tuần các thực phẩm giàu purin như thịt nạc các loại, phủ tạng, cá và hải sản, đậu đỗ, đậu phụ, bia/rượu nhiều hơn nhóm không bị bệnh (p<0,05, p<0,01, p<0,001).