Kỹ Thuật Nấu Lẩu Dê Ngon / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Vinaconex.edu.vn

Kỹ Thuật Nấu Ăn Là Gì?

Kỹ thuật nấu ăn là gì?

Nấu ăn là một nghệ thuật, kỹ thuật và nghề thủ công từ việc chuẩn bị nguyên vật liệu đến sơ chế thức ăn, chế biến thức ăn, đến khâu trang trí sắp xếp bố trí món ăn cho hợp lý phù hợp với nhiều loại hình món ăn khác nhau, thành phẩm của việc nấu ăn có thể được chế biến sử dụng bằng nhiệt hoặc không sử dụng nhiệt.

Các kĩ thuật và nguyên liệu nấu ăn rất đa dạng trên thế giới, từ việc nướng thức ăn trên ngọn lửa cũng rất đa dạng, từ sử dụng bếp lửa truyền thống, bếp điện tử, bếp từ, lò than nóng, lò điện nướng,… Món ăn phản ánh các xu hướng và đặc điểm văn hóa, kinh tế, môi trường của từng miền, khu vực, quốc gia khác nhau.

Các kỹ thuật nấu ăn cơ bản trong ẩm thực

Để trở thành một đầu bếp chuyên nghiệp, mỗi người cần phải thường xuyên học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao tay nghề đồng thời nắm vững các kỹ thuật nấu ăn cơ bản trong khoa học ẩm thực để từ có thể ứng dụng và tạo ra những món ăn ngon và giá trị hơn.

Gelatinization (Hồ hóa/keo hóa)

Quá trình keo hóa trong nấu ăn được hiểu đơn giản là sự hồ hóa của tinh bột, các hạt tinh bột nở ra khi bị đun nóng trong chất lỏng. Quá trình keo hóa khiến độ dày của thực phẩm tăng lên. Keo hóa là một phản ứng vật lý – hóa học đóng vai trò quan trọng trong kỹ thuật nấu các món ăn từ tinh bột.

Kỹ thuật keo hóa có thể được áp dụng để tạo ra nhiều món ăn như bỏng ngô, bánh ngọt, hỗn hợp roux và sữa trứng hoặc được sử dụng để tạo ra các loại thạch, rau câu trái cây.

Coagulation (Kết đông)

Trong khoa học ẩm thực, chúng ta đề cập đến sự kết đông của protein. Quá trình này xảy ra khi protein biến đổi từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn và không thể đảo ngược lại quá trình khi nấu nướng. Sự kết đông bắt đầu ở khoảng 38 độ C và kết thúc ở khoảng 71- 82 độ C. Có 3 loại protein chính thường được áp dụng kỹ thuật phương pháp kết đông trong nấu ăn là: trứng, đậu nành, gluten (một loại bột protein).

Kỹ thuật kết đông được sử dụng trong rất nhiều thực đơn, đặc biệt là các món ăn từ trứng, đậu nành, bánh kẹp hamburger, pizza hay các món tráng miệng.

Denaturation (Biến tính)

Biến tính (Denaturation) và kết đông (Coagulation) thường được gọi là cặp song sinh của khoa học thực phẩm bởi vì chúng hầu như luôn luôn xảy ra cùng nhau. Nếu như quá trình kết đông làm đông đặc protein, biến đổi chúng từ thể lỏng sang thể rắn thì với biến tính, người nấu sẽ phá vỡ cấu trúc xoắn ốc của protein, làm biến đổi chúng thành một dạng cấu trúc hoàn toàn khác so với cấu trúc ban đầu.

Quá trình biến tính xảy ra trước quá trình kết đông và thường được áp dụng trong quá trình sơ chế thức ăn như đánh trứng, làm mềm thịt trước khi nấu, làm kem chua hoặc sữa chua…

Emulsification (Nhũ tương hóa)

Trong khoa học ẩm thực, nhũ tương là một hỗn hợp của hai chất lỏng mà thông thường không thể pha trộn với nhau, như dầu và giấm.

Có hai loại nhũ tương: nhũ tương tạm thời và nhũ tương vĩnh viễn. Một ví dụ về nhũ tương tạm thời là dầu giấm, một gia vị thường được dùng để trộn các món salad trong ẩm thực châu Âu. Khi bạn đổ dầu và giấm vào trong một cái lọ, cố khuấy đều để dầu và giấm hòa quyện lại với nhau, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, chúng sẽ bắt đầu tách ra.

Maillard reaction (Phản ứng maillard)

Trong khoa học ẩm thực, phản ứng maillard phức tạp đến mức phải đến vài năm gần đây các nhà khoa học mới bắt đầu đi sâu tìm hiểu bản chất thật sự của nó là gì. Tuy nhiên, phản ứng maillard có thể hiểu một cách đơn giản là lúc nhiều phản ứng hóa học nhỏ đồng thời xảy ra khi protein và đường trong thức ăn bị biến đổi bởi nhiệt, tạo thành hương vị, mùi thơm và màu sắc mới cho món ăn.

5 phương pháp nấu ăn cơ bản dành cho người mới bắt đầu

Xào

Xào là phương pháp nấu ăn nhanh chóng, được thực hiện bằng cách đưa thực phẩm cần xào vào chảo ở nhiệt độ cao, và sử dụng thêm một lượng nhỏ chất béo để tránh bị cháy. Nó giúp tạo hương vị cho thực phẩm, và là làm mới món thịt và rau cho bữa ăn.

Với phương pháp xào thức ăn, nguyên tắc quan trọng nhất là cả chảo và các chất béo được đun nóng đến nhiệt độ cao trước khi đưa thức ăn vào chảo đó. Nếu không, thức ăn sẽ không được nấu đúng cách, thức ăn sẽ hấp thụ, hút nhiều chất béo vào nó và sau đó dính vào chảo. Để kiểm tra xem chảo đủ nóng hay chưa, tốt nhất là thêm một vài giọt nước vào chảo, nếu chúng sôi sục mạnh mẽ và bay hơi nhanh trong một vài giây thì lúc đó chảo đã đủ nóng.

Bất cứ loại thực phẩm nào cũng có thể sử dụng với chảo để xào, tuy nhiên nếu thực phẩm quá dày, quá cứng như xương gà, hoặc các loại rau củ cứng thì không nên xào bởi các loại thực phẩm này sẽ phải được dầu và chảo làm chín ở bên ngoài lâu hơn trước khi chúng được nấu chín ở bên trong.

Chiên

Chảo rán là là loại chảo tương tự như chảo xào. Thực phẩm chiên chủ yếu là thịt – chẳng hạn như ức gà, thịt nướng, sườn lợn và philê cá, không được cắt thành từng miếng. Tuy nhiên, chiên thực hiện ở nhiệt độ thấp hơn xào để đảm bảo rằng thực phẩm không bị đốt cháy ở bên ngoài trước, khi mà bên trong chúng chưa được nấu chín.

Nướng

Nướng lò vi sóng và nướng vỉ là cả hai phương pháp nấu ăn khô mà thực phẩm được sưởi ấm bằng ngọn lửa để chín. Sự khác biệt duy nhất giữa 2 phương pháp này là: nướng lò vi sóng là nguồn nhiệt tác động lên trên thức ăn, trong khi nguồn nhiệt từ nướng vỉ xuất phát từ bên dưới.

Với nướng lò vi sóng và nướng vỉ, thức ăn được nấu chín bằng không khí nóng được sản xuất bởi ngọn lửa. Tuy nhiên, không khí thực sự là chất dẫn nhiệt kém, vì vậy thức ăn cần được đặt khá gần với nguồn nhiệt. Điều này có nghĩa rằng các thức ăn nấu nhanh ở bên ngoài, làm cho lượng chất béo từ thực phẩm như thịt, cá bị tiêu hao.

Do tính chất nóng và khô của phương pháp nấu ăn này, rất nhiều loại thực phẩm sẽ được ướp trước khi nấu để đảm bảo rằng chúng vẫn ẩm và đậm đà hương vị. Ướp thực phẩm có nghĩa là thêm toàn bộ gia vị cần có vào thức ăn, trộn đều và để yên trong một khoảng thời gian nhất định để gia vị ngấm vào thực phẩm sau đó mới nướng.

Các thực phẩm thường được đặt trên vỉ nướng có lưới, cho phép các chất béo có thể thoải mái bung ra và rơi xuống lò nướng đó.

Các thực phẩm sẽ cần phải được lật qua lật lại một lần trong thời gian nướng để đảm bảo thực phẩm chín đều cả hai bên.

Rang

Rang là phương pháp nấu ăn ở nhiệt độ khô, trong đó bao gồm thực phẩm được đặt trên một chảo rang trong lò nhiệt độ cao. Nó thường được sử dụng để rang các loại thịt như gà, gà tây, thịt nạc lợn, thịt cừu, thịt bò, philê cá và các loại rau.

Với phương pháp rang, trọng tâm chính tạo nên hương vị riêng cho thức ăn không phải là nước sốt hay nước hầm khác mà là hương vị của chính thức ăn khi bị hong khô. Đó là biểu hiện của việc vẻ bên ngoài của thịt hoặc rau quả chuyển sang màu nâu vàng đều trong khi bên trong vẫn còn ẩm.

Hấp

Hấp là một phương pháp nấu ăn bằng nhiệt ẩm, trong đó sử dụng nhiệt từ hơi nước để nấu thức ăn. Nó là một hình thức rất nhẹ nhàng giúp các thực phẩm như rau, cá chín đều, không sử dụng thêm dầu, mỡ mà vẫn giữ nguyên các chất dinh dưỡng.

Hấp chín thức ăn ở nhiệt độ sôi của nước từ 85 – 95° C. Hấp thức ăn nhờ hơi nước nóng là một trong những hình thức nấu ăn nhẹ nhàng nhất và thức ăn không được kích động bởi bọt nước cho nên không bị ngâm trong nước.

Hấp cũng là một kỹ thuật chế biến món ăn đơn giản và giữ được nhiều chất dinh dưỡng nhất bởi hơi nước không thể thấm chất dinh dưỡng từ thực phẩm. Việc hấp thực phẩm có thể bảo quản chất dinh dưỡng hơn 50% so với các hình thức khác của kỹ thuật nấu ăn. Ngoài ra, thực phẩm hấp không yêu cầu bất kỳ chất béo nào (như dầu, bơ…) thêm vào để trợ giúp nấu ăn, giúp cắt giảm lượng calo của thực phẩm.

Hấp là một phương pháp nấu ăn tương đối nhanh chóng, vì nó được tiến hành ở nhiệt độ cao. Hầu hết các loại rau được hấp dưới 5 phút, trong khi cá và thịt trắng khác sẽ mất từ 3 đến 5 phút, tùy thuộc vào độ dày của thực phẩm.

Kỹ Thuật Nuôi Gà Rừng

1.1. Đặc điểm nhận dạng

– Gà rừng có cánh dài 200 – 250 mm nặng 1 – 1,1kg. Con trống có lông ở đầu và cổ màu đỏ cam, lưng và cánh đỏ thẫm, ngực bụng và đuôi đen. Con mái nhỏ hơn con trống, toàn thân màu nâu xỉn. Mắt nâu hay vàng cam ở con mái và màu đỏ ở con trống. Mỏ nâu, chân xám xanh. – Thân hình thanh, mào nhỏ. Gà rừng duy nhất chỉ có mào cờ. Khi gà thay lông thì mào gà giảm đi 1/3 kích cỡ. – Tích, tai: + Gà trống có tích dài nhưng không quá to, tai màu trắng. + Gà mái tích rất nhỏ hầu như không có, tai gà mái cũng có màu trắng nhưng rất nhỏ so với gà trống. – Mặt: gà rừng có mặt nhỏ, không dài, mỏ thẳng màu sắc của mỏ phụ thuộc vào màu sắc của chân gà có thể là màu nâu hơi trắng hoặc vàng hơi xanh. – Lông: gà rừng trống có lông đuôi thưa tối đa 2 cọng lông đuôi chính chia đều 2 bên mỗi bên 1 cọng. 4 cọng lông đuôi phụ cong đều mỗi bên không quá dài. Lông đuôi gà rừng thường chụm lại chứ không xòe ra. Độ dài lông đuôi phụ thuộc vào từng loại gà. – Có sức đề kháng cao, khỏe mạnh, ít xảy ra bệnh dịch. – Dễ nuôi, không cần nhiều thức ăn. – Sống theo đàn, ngủ trên cành cây. – Chất lượng thịt cao, thịt thơm ngon, giá bán cao. – Gà trống được khoảng 6 tháng tuổi bắt đầu gáy và được 8 tháng tuổi là gáy rành rọt. Gà biết gáy là có thể đạp mái. – Gà mái khoảng 7 tháng tuổi bắt đầu đẻ. Gà đẻ tối đa 3 lứa/năm (đối với gà nuôi ở nhà). – Khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch thì gà trống bắt đầu thay lông và trong thời gian này thì gà mái cũng không đẻ. – Chân: gà rừng là chân tròn chứ không có chân vuông. Chân màu xanh đá hoặc xanh vỏ đậu. Cựa gà rừng ra rất nhanh khoảng 10 tháng tuổi cựa dài hơn 1cm nhưng gà hơn 1 năm tuổi cựa mới nhọn. Gà rừng chân cũng có 4 ngón như chân gà ta. – Gà non có sọc to màu nâu sẫm ở chính giữa lưng chạy từ đỉnh đầu cho đến đuôi. Hai sọc mỏng màu nâu sẫm khác ở hai bên sườn (chạy từ cổ đến đuôi). Màu giữa các sọc là màu kem. Những sọc điển hình khác chạy từ mắt đến sau đầu. Phần còn lại trên lưng màu nâu nhạt và ở bụng màu nâu nhạt hơn. Lông cánh mọc nhanh và gà có thể bay 1 đoạn ngắn khi đạt1 tuần tuổi. Cẳng chân và các ngón chân ở vài ngày tuổi có màu xanh nhạt.

– Gà rừng có cánh dài 200 – 250 mm nặng 1 – 1,1kg. Con trống có lông ở đầu và cổ màu đỏ cam, lưng và cánh đỏ thẫm, ngực bụng và đuôi đen. Con mái nhỏ hơn con trống, toàn thân màu nâu xỉn. Mắt nâu hay vàng cam ở con mái và màu đỏ ở con trống. Mỏ nâu, chân xám xanh. – Thân hình thanh, mào nhỏ. Gà rừng duy nhất chỉ có mào cờ. Khi gà thay lông thì mào gà giảm đi 1/3 kích cỡ. – Tích, tai: + Gà trống có tích dài nhưng không quá to, tai màu trắng. + Gà mái tích rất nhỏ hầu như không có, tai gà mái cũng có màu trắng nhưng rất nhỏ so với gà trống. – Mặt: gà rừng có mặt nhỏ, không dài, mỏ thẳng màu sắc của mỏ phụ thuộc vào màu sắc của chân gà có thể là màu nâu hơi trắng hoặc vàng hơi xanh. – Lông: gà rừng trống có lông đuôi thưa tối đa 2 cọng lông đuôi chính chia đều 2 bên mỗi bên 1 cọng. 4 cọng lông đuôi phụ cong đều mỗi bên không quá dài. Lông đuôi gà rừng thường chụm lại chứ không xòe ra. Độ dài lông đuôi phụ thuộc vào từng loại gà. – Có sức đề kháng cao, khỏe mạnh, ít xảy ra bệnh dịch. – Dễ nuôi, không cần nhiều thức ăn. – Sống theo đàn, ngủ trên cành cây. – Chất lượng thịt cao, thịt thơm ngon, giá bán cao. – Gà trống được khoảng 6 tháng tuổi bắt đầu gáy và được 8 tháng tuổi là gáy rành rọt. Gà biết gáy là có thể đạp mái. – Gà mái khoảng 7 tháng tuổi bắt đầu đẻ. Gà đẻ tối đa 3 lứa/năm (đối với gà nuôi ở nhà). – Khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch thì gà trống bắt đầu thay lông và trong thời gian này thì gà mái cũng không đẻ. – Chân: gà rừng là chân tròn chứ không có chân vuông. Chân màu xanh đá hoặc xanh vỏ đậu. Cựa gà rừng ra rất nhanh khoảng 10 tháng tuổi cựa dài hơn 1cm nhưng gà hơn 1 năm tuổi cựa mới nhọn. Gà rừng chân cũng có 4 ngón như chân gà ta. – Gà non có sọc to màu nâu sẫm ở chính giữa lưng chạy từ đỉnh đầu cho đến đuôi. Hai sọc mỏng màu nâu sẫm khác ở hai bên sườn (chạy từ cổ đến đuôi). Màu giữa các sọc là màu kem. Những sọc điển hình khác chạy từ mắt đến sau đầu. Phần còn lại trên lưng màu nâu nhạt và ở bụng màu nâu nhạt hơn. Lông cánh mọc nhanh và gà có thể bay 1 đoạn ngắn khi đạt1 tuần tuổi. Cẳng chân và các ngón chân ở vài ngày tuổi có màu xanh nhạt.

Gà rừng có bản tính nhút nhát hơn nhiều nên thuần hóa gà rừng cũng khá khó khăn. Tùy theo gà được bắt ở rừng về hay được ấp nở từ trứng mà ta có cách thuần hóa khác nhau.

(*) Đối với gà được bắt từ rừng về:

– Nếu bắt được gà mái thì ta có thể nhốt cùng gà trống và ngược lại. Việc nhốt chung như vậy giúp gà rừng nhanh chóng biết được chỗ để ăn.

– Nếu bắt được gà con thì ta có thể nhốt chung với những con gà khác cùng kích cỡ, dùng bạt che kín 3 phía lồng nhốt để tránh gây tổn thương cho gà con, trừ phía trước lồng ra vì để cho thoáng khí và gà không đâm về hướng này.

(*) Đối với gà nuôi ở nhà:

Khi gà con nở ra thay vì ném thức ăn vào cho gà ăn thì ta cần ngồi cạnh gà cho gà ăn đây là cách tốt nhất cho gà quen với sự có mặt của người và xác định được con người không có gây hại đối với nó. Qua tuần thứ 5 gà đã cứng cáp hơn ta thả gà con theo mẹ nhưng đến thời gian cho ăn thì gọi gà về và ngồi cạnh cho ăn hoặc cho ăn quanh bạn.

 

Tùy điều kiện của từng hộ gia đình khác nhau, giai đoạn và nguồn gốc gà khác nhau mà có phương thức nuôi khác nhau như nuôi nhốt hoặc thả rông nhưng phải đảm bảo được các tiêu chí sau: – Quây xung quanh chuồng bằng lưới B40, xung quanh xây gạch cao 40cm, nền đổ cát vàng. – Khô ráo, thoáng mát, dễ thoát nước. – Đảm bảo ấm mùa đông , mát mùa hè. Đối với gà mới nở cần có quây úm đảm bảo đủ ấm cho gà con tránh cho gà bị lạnh dễ bị mắc bệnh. – Phòng dịch bệnh trong chuồng như quét vôi xung quanh, tiêu độc khử trùng trong chuồng bằng NaOH… – Để trống chuồng 15 – 20 ngày trước khi cho đàn mới vào nuôi. – Nuôi gà cùng lứa tuổi trong 1 chuồng để đảm bảo công tác phòng chống dịch bệnh. Cách ly những con mới bắt để phòng bệnh. – Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ấm chân tránh nhiễm bệnh nên cần làm một số dàn đậu trong chuồng. Khoảng cách giữa các dàn đậu khoảng 0,3 – 0,4 m nhằm đảm bảo gà không bị đụng vào nhau, không mổ nhau, không ỉa phân lên nhau. – Làm ổ đẻ cho gà ở nơi tối nhưng vẫn phải đảm bảo khô ráo, sạch sẽ. – Đảm bảo diện tích đủ rộng để nuôi gà mật độ nuôi càng thấp thì khả năng tăng trọng cao, dịch bệnh xảy ra ít và ngược lại.

Tùy điều kiện của từng hộ gia đình khác nhau, giai đoạn và nguồn gốc gà khác nhau mà có phương thức nuôi khác nhau như nuôi nhốt hoặc thả rông nhưng phải đảm bảo được các tiêu chí sau: – Quây xung quanh chuồng bằng lưới B40, xung quanh xây gạch cao 40cm, nền đổ cát vàng. – Khô ráo, thoáng mát, dễ thoát nước. – Đảm bảo ấm mùa đông , mát mùa hè. Đối với gà mới nở cần có quây úm đảm bảo đủ ấm cho gà con tránh cho gà bị lạnh dễ bị mắc bệnh. – Phòng dịch bệnh trong chuồng như quét vôi xung quanh, tiêu độc khử trùng trong chuồng bằng NaOH… – Để trống chuồng 15 – 20 ngày trước khi cho đàn mới vào nuôi. – Nuôi gà cùng lứa tuổi trong 1 chuồng để đảm bảo công tác phòng chống dịch bệnh. Cách ly những con mới bắt để phòng bệnh. – Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ấm chân tránh nhiễm bệnh nên cần làm một số dàn đậu trong chuồng. Khoảng cách giữa các dàn đậu khoảng 0,3 – 0,4 m nhằm đảm bảo gà không bị đụng vào nhau, không mổ nhau, không ỉa phân lên nhau. – Làm ổ đẻ cho gà ở nơi tối nhưng vẫn phải đảm bảo khô ráo, sạch sẽ. – Đảm bảo diện tích đủ rộng để nuôi gà mật độ nuôi càng thấp thì khả năng tăng trọng cao, dịch bệnh xảy ra ít và ngược lại.

– Đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho gà phát triển tốt.

+ Thức ăn tinh bột gồm: cám gạo, cám ngô, tấm…

+ Thức ăn bổ sung đạm gồm: dế, cào cào, mối, giun quế…

+ Thức ăn bổ sung khác premix khoáng, premix vitamin, rau xanh…

– Thức ăn phù hợp theo từng giai đoạn.

+ Gà con: cho ăn cám dành cho gà 1 – 21 ngày sau đó có thể cho ăn thêm gạo, tấm.

+ Gà đẻ cho ăn thêm cám dành cho gà đẻ, bổ sung thêm canxi và cho ăn thêm mồi tươi.

+ Gà trống: khi thấy gà có biểu hiện thay lông cần cho gà ăn nhiều mồi tươi có thể cho ăn thêm thịt mỡ ít nạc vì trong thời gian này gà trống rất mất sức.

– Yêu cầu nguyên liệu: không bị ẩm mốc, sâu mọt, hấp hơi, có mùi lạ và không bị vón cục. Một số nguyên liệu cần phải sơ chế trước khi cho gà ăn như đậu tương cần rang chín, vỏ sò, vỏ hến phải nung nóng trước khi nghiền… Các loại nguyên liệu thức ăn trước khi phối trộn cần nghiền nhỏ.

– Cách phối trộn thức ăn: Dàn đều các thức ăn đã nghiền ra nền nhà theo thứ tự nhiều đổ trước ít đổ sau, các nguyên liệu ít như premix khoáng, vitamin ta cần trộn với các nguyên liệu khác như cám ngô, cám gạo trước rồi mới trộn với các nguyên liệu khác. Dùng xẻng hoặc tay trộn thật đều sau đó đóng vào bao sau dó đặt bao thức ăn lên chỗ cao ráo cách xa tường và trần nhà. Cần bảo quản kỹ tránh bị chuột cắn.

– Lượng thức ăn cho 1 ngày đêm:

+ Gà từ 1 – 10 ngày tuổi: 6 – 10g/con.

+ Gà từ 11 – 30 ngày tuổi: 15 – 20g/con.

+ Gà từ 31 – 60 ngày tuổi: 30 – 40 g/con.

+ Gà từ 61 – 150 ngày tuổi (gà dò): 45 – 80g/con.

+ Gà sinh sản: gà mái cho ăn 100g/con, gà trống 110g/con.   – Máng ăn, máng uống

+ Gà có thói quen ăn uống cùng nhau nên ta treo máng ăn và máng uống cạnh nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của gà.

+ Gà ở lứa tuổi khác nhau cần treo máng ăn và máng uống có kích cỡ thích hợp đảm bảo cho gà ăn được lượng thức ăn nhiều nhất.

+ Vệ sinh sạch sẽ máng ăn và máng uống cuả gà tránh cho gà mắc bệnh.

 

2.4.1. Chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý gà rừng con

(*) Cách úm gà:

+ Quây úm: kích thước 2 x 1 m cao 0,5 m đủ đẻ nuôi 100 con gà.

+ Chuẩn bị quây úm: Rửa sạch nền chuồng, sát trùng bằng Formol 2% hoặc Crezin, Hanlamid. Dùng cót quây khoảng 2 – 4m tùy theo số lượng gà định úm. Nền chuồng có lớp độn chồng bằng trấu dày 10 – 15 cm. Trong chuồng có máng ăn, máng uống nước và đèn sưởi.

+ Mật độ chuồng nuôi: sau khi gà con nở được 18 – 24 giờ (đủ thời gian để gà con khô lông), chọn những gà con đạt tiêu chuẩn như khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lông bông tơi xốp, không bị dị tật. Mật độ chuồng nuôi thích hợp theo tuần tuổi như sau:

 

(*) Sưởi ấm cho gà

Bằng 2 bóng 75W dùng cho 100 con gà. Tùy theo mùa vụ và hiện trạng đàn gà mà điều chỉnh nhiệt sưởi cho thích hợp. Gà từ 22 – 28 ngày tuổi nhiệt độ điều chỉnh theo độ mọc lông. Nếu gà tụ lại xung quanh nguồn nhiệt, kêu chiếp chiếp không ăn có nghĩa là gà bị lạnh cần tăng thêm nhiệt độ. Gà tản xa nguồn nhiệt, há miệng thở có nghĩa là thừa nhiệt. Gà đi lại nhanh nhẹn, ăn uống bình thường có nghĩa là nhiệt độ thích hợp. Nếu gà tụm lại một góc thì phải quan sát có gió lùa hay không.

Chú ý: Nên sử dụng đèn hồng ngoại ngoài việc sưởi ấm còn có tác dụng phòng bệnh cho gà.

   

Bảng 2: Thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng:

Thời gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng rất qua trọng đối với gà con. Nếu sử dụng được nguồn chiếu sáng sẽ có tác dụng làm tăng đòi hỏi thức ăn, kích thích cơ thể phát triển mà không làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Người ta thường dùng bóng đèn treo ở dọc chuồng cách nền chuồng 2,5 m với cường độ chiếu sáng như sau:

(*) Chăm sóc gà con:

– Khi gà mới nhập về: bổ sung nước uống, đường Glucose, Permasol 500, vitamin C như sau: 50g đường, 1g Permasol, 1g vitamin C hòa với 1 lí nước cho gà uống để tăng sức đề kháng cho gà, nếu sức đề kháng kém khả năng chống chịu bệnh tật kém, sau 2 giờ thu máng uống, rửa sạch.

– Sau 2 -3 giờ đổ thức ăn cho gà ăn.

Chú ý: Chon loại cám thích hợp với khả năng tiêu hóa của gà con lúc này tốt nhất nên cho gà ăn cám dành cho gà giai đoạn từ 1 – 21 ngày tuổi, không nên đổ thức ăn quá nhiều vì gà con vừa ăn vừa bới.

– Cho gà con ăn 5 – 6 bữa/ngày, mỗi lần cho ăn với lượng thức ăn vừa đủ đảm bảo thức ăn luôn tươi mới kích thích tính ăn của gà.

– Giai đoạn này không nên thả gà ra vì giai đoạn này gà nhỏ dễ mắc bệnh. Có thể thả gà ra khi gà được 4 tuần tuổi.

Chú ý: thời gian thả gà con ngày đầu tiên thả gà ra khoảng 2 tiếng sau đó nhốt lại, gà mái và gà trống thả tự do. Những ngày sau đó thời gian thả tăng dần, cho gà con theo mẹ.

 

2.4.2. Chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý gà rừng hậu bị.

– Thức ăn:

+ Giảm bớt thức ăn công nghiệp, giảm thức ăn nhiều năng lượng, protein, tăng cường xơ, cho gà ăn thức ăn đã phối trộn kết hợp cho gà ăn rau xanh.

+ Giai đoạn này cho gà ăn 2 bữa/ngày vào lúc 7h sáng và 17h chiều. Xung quanh khu vực chăn thả nếu dồi dào thức ăn thiên nhiên thì ta nên giảm bớt lượng thức ăn cho gà trước khi cho gà vào chuồng ngủ.

+ Trong giai đoạn này tránh để gà quá gầy hoặc quá béo ảnh hưởng đến sản lượng trứng.

 

– Ngủ: tạo giàn đậu cho gà để cho gà ngủ vào ban đêm.

– Sân chơi: có hố tắm cát cho gà để gà trừ mạt, bong các tế bào già ngoài da. Hố có thể xây bằng xi măng hoặc bằng gỗ ở góc sân chơi dài 1m, rộng 60cm, cao 15cm dùng cho 1 đàn gà 100 – 200 con. Trong hố gồm 1 phần cát, 1 phần tro bếp và 1% lưu huỳnh.

– Phòng bệnh:

+ Lúc trước khi chuyển từ gà hậu bị lên gà đẻ cần tẩy giun sán. Bốn tháng sau lần tiêm Newcastle hệ 1 lần thứ 1, lặp lại tiêm lần thứ 2.

+ Ở giai đoạn hậu bị hay bị bệnh tụ huyết trùng cấp tính. Ngoài ra tuy đã tiêm phòng bệnh Marek 1 ngày tuồi nhưng trước lúc gà đẻ hay bị u cục ở phủ tạng, buồng trứng. Có thể do bệnh Lơco hoặc u cục chưa rõ nguyên nhân. Ở nước ta chưa có vacxin phòng bệnh này, tốt nhất là phát hiện sớm, cách ly con bị bệnh, tẩy uế, sat trùng chuồng trại.

2.4.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý gà rừng đẻ

2.4.3.1. Lưu ý

– Gà đẻ khi được 6 – 7 tháng tuổi. Gà rừng sinh sản vào đầu tháng 3, một lứa đẻ khoảng 10 quả trứng và ấp 21 ngày thì nở.

– Để đảm bảo chất lượng trứng ấp nở tốt thì 1 trống có thể phối giống với 10 – 12 mái.

– Khi gà đẻ cho ăn thêm cám dành cho gà đẻ và bổ sung canxi cho gà khi bắt đầu thấy mặt gà đỏ.

– Tạo ổ đẻ cho gà ở nơi tối nhưng vẫn đảm bảo khô ráo thoáng mát.

– Nhu cầu dinh dưỡng: khi gà đẻ cần tăng lượng thức ăn lên so với những ngày gà chưa đẻ. Cho gà ăn 3 lần/ngày. Nên cho gà ăn thêm rau xanh để bổ sung vitamin.

 

2.4.3.2. Cách ấp trứng:

Có 2 cách ấp trứng là ấp trứng tự nhiên (gà mẹ tự ấp) và ấp trứng nhân tạo.

a. Ấp trứng tự nhiên

– Thu nhặt và bảo quản trứng: Ngay sau khi gà đẻ xong cần thu trứng luôn sau đó xếp trứng vào khay, rổ, rá đầu to hướng lên trên tránh va chạm, để ở nơi khô ráo, thoáng mát, nhiệt độ thích hợp để bảo quản không quá 18 độ C. Mùa hè bảo quản trứng không quá 5 ngày, mùa đông bảo quản trứng không quá 7 ngày. Trứng để lâu, nhiều trứng chết phôi, tỷ lệ ấp nở kém.

– Chọn trứng: chọn trứng không quá to, quá nhỏ, tròn quá, dài quá.

– Chọn mái ấp: khi gà đẻ hết trứng, nhưng còn sung sức, lông không quá xơ xác, đầu thanh nhỏ, chân thấp, lông tơ nhiều, thân hình vừa phải, không bé quá sẽ ấp được ít trứng, không nặng nề quá sẽ làm vỡ trứng. Gà có tính đòi ấp cao, tính ôn hòa, không mắc bệnh, không có ký sinh trùng.

– Số lượng trứng ấp: Nên cho gà ấp số trứng lẻ vì cho ấp trứng chẵn thường bị 1 quả lăn ra ngoài, mất nhiệt, phát dục không bình thường.

– Ổ ấp: có thể dùng thúng, rổ, hoặc có thể đóng thùng gỗ có diện tích 40 x 40 cm, lót rơm khô, để ở vị trí thoáng, khô ráo, nhưng không sáng quá, tránh gió lùa, yên tĩnh. Trong quá trình ấp có thể phát sinh mạt gà theo kinh nghiệm dân gian có thể lót lá xoan ở dưới ổ. Nếu trứng bị vỡ phải thay rơm luôn.

– Nếu gà ấp quá say không chịu xuống ăn cần cố định giờ bắt gà xuống ăn ngày 2 lần và để gà bài tiết tránh phóng uế phân ra ổ.

– Thức ăn lúc này của gà là các thức ăn giàu năng lượng (ngô, thóc cám gạo, … ) nhằm cung cấp năng lượng cho gà đồng thời tiêu hóa chậm, thời gian duy trì dài. Nên cho ăn thêm rau xanh để cung cấp vitamin.

– Gần chỗ gà ăn nên có ổ tắm cát (cát + tro bếp + 1% lưu huỳnh) để trừ bọ mạt.

– Soi trứng: soi 2 lần: lần 1 vào ngày thứ 6 để loại những trứng không có phôi và ngày thứ 11 để loại những trứng chết phôi.

b. Ấp trứng nhân tạo

(*) Chọn trứng ấp:

– Chọn trứng theo ngoại hình: Chọn trứng chú ý loại bỏ các quả trứng quá to hoặc quá nhỏ, quá mỏng hoặc méo mó, xù xì, rạn nứt, dập không nên cho vào ấp vì những trứng này không chỉ tỷ lệ nở kém mà chất lượng gà con thấp không thể cho làm giống được. Trứng quá dài hoặc quá tròn cũng không nên cho vào ấp vì tỷ lệ lòng đỏ và lòng trắng không can đối.

– Chọn trứng theo khối lượng trứng: chọn trứng có khối lượng đặc trưng cho từng giống.

 

– Chọn trứng bằng đèn soi: Sau khi kiểm tra ngoại hình để loại bớt trứng không đủ tiêu chuẩn ấp cần soi đèn kiểm tra để phát hiện và loại bỏ những trứng sau đây:

+ Trứng rạn, dập vì trong quá trình ấp chỗ rạn, nứt sẽ tạo khe hở để vi khuẩn xâm nhập vào bên trong gây thối, đồng thời tỷ lệ mất nước loại trứng này lớn, sẽ dẫn đến phôi chết cao.

+ Trứng có lòng đỏ không nằm ở vị trí giữa, có dị vật, cục máu bên trong.

+ Trứng có buồng khí nằm không đúng vị trí (buồng khí không ở đầu to, buồng khí di động hoặc rung động đều), kích thước buồng khí quá lớn.

(*) Bảo quản trứng ấp

Trứng trước khi đưa vào bảo quản được phân loại, chỉ chọn những trứng đạt tiêu chuẩn ấp mới đưa vào bảo quản. Phòng bảo quản phải tối, không có ánh sáng lọt vào. Đồng thời bảo quản trứng cần có những yêu cầu sau:

– Xếp trứng

+ Trứng cho vào khay chuyên dụng, xếp khay nghiêng góc 300 đầu to (đầu buồng khí) hướng lên trên. Đảo trứng 1 lần/ngày (đảo ngược lại 180 độ).

+ Chọn trứng cùng kích cỡ để cùng 1 khay.

+ Khay trứng đưa vào bảo quản phải được ghi rõ ngày thu trứng.

– Nhiệt độ bảo quản trứng

Nhiệt độ bảo quản trứng ấp tốt nhất là 15 – 20 độC có thể bảo quản trứng trong vòng 7 – 14 ngày. Trong trường hợp bảo quản trứng dưới 3 ngày có thể bảo quản trứng trong điều khiện nhiệt độ phòng.

– Ẩm độ bảo quản trứng: Ẩm độ thích hợp để bảo quản trứng là 75%.

Chú ý: Trứng được đưa khỏi phòng bảo quản phải được làm ấm trở lại bằng cách đặt xếp lên giá ở phòng ấp 6 – 10 giờ trước khi đưa trứng vào máy ấp, nhằm tránh stress do nhiệt độ chênh lệch.

(*) Xử lý trứng ấp:

Trước khi đưa trứng vào ấp cần phải xông khử trùng trứng bằng Formol, thuốc tím diệt vi khuẩn, nếu trứng không được xông khử trùng vi khuẩn sẽ lưu giữ trên vỏ trứng và trong máy sẽ có điều kiện xâm nhập vào trong gây chết phôi, tỷ lệ trứng thối tăng, độc tố lây lan sang trứng khác, lượng amoniac (NH3), H2S tăng gây ngộ độc cho hàng loạt trứng trong máy ấp.

(*) Kỹ thuật ấp trứng

– Thời gian ấp trứng: khi trứng đưa vào ấp đến ngày thứ 21 nở ra gà con. Trứng to nở muộn, trứng nhỏ nở sớm, thời gian nở chênh lệch 5 – 10 giờ.

– Chuẩn bị máy ấp, máy nở và xếp trứng vào máy. Máy ấp và máy nở phải được vệ sinh trước, sau đó xông khử trùng (dùng thuốc tím và Formol giống như phần phương pháp xông khử trùng trứng, sau đó mở cửa cho khí Formol bay hết).

– Đối với máy ấp:

Bật máy trước 2 – 4 giờ để máy đạt nhiệt độ yêu cầu sau đó mới xếp trứng vào máy ấp. Có thể đưa trứng vào máy trước khi xông khử trùng (phương pháp này vừa xông trứng vừa xông khử trùng máy ấp nhưng chỉ áp dụng cho máy đơn kỳ). Sau đó bật máy ấp, nhưng thời gian ấp phải được tính từ khi máy đạt nhiệt độ yêu cầu.

– Đối với máy nở: Bật máy trước khi chuyển trứng từ 4 – 5h (đủ nhiệt độ). Sau khi gà nở, lấy gà ra khỏi máy thì tiến hành vệ sinh máy, xông khử trùng với cách làm như trên chuẩn bị cho đợt ấp tiếp theo. Chú ý khay trứng đưa vào ấp phải được ghi ngày thu trứng.

– Các yêu cầu kỹ thuật

+ Nhiệt độ ấp:

 

+ Độ ẩm: Những ngày đầu tiên nhiệt độ ấp cao nên độ ẩm phả cao để giảm bớt sự bốc hơi nước trong trứng. Vào vài ngày cuối của thời kỳ ấp, sự trao đổi chất của phôi mạnh nhất, nhiệt độ của trứng tăng lên cao nhất nên nhiệt độ của máy ấp phải giảm, đồng thời ẩm độ của máy ấp phải tăng (phun nước ấm lên trứng) để vừa hạ nhiệt trứng vừa tránh gà nở bị sát vỏ và chết ngạt.

Ẩm độ thích hợp cho ấp trứng cụ thể như sau:

 

– Chú ý:

+ Gà bắt đầu nở tăng ẩm độ tối đa (bằng cách phun nước ấm).

+ Trước khi ra gà, chú ý cắt ẩm độ trước 6 giờ.

+ Trong những ngày nóng cần hạ nhiệt độ phòng ấp bằng cách mở cửa phòng, phun nước ấm (35 – 36 độ C) làm mát phòng ấp.

+ Nếu trong quá trình ấp độ ẩm quá cao gà con nở ra sẽ nặng bụng, bên trong vỏ dính đầy chất nhớt. Nếu độ ẩm thiếu lông gà sẽ dính vào vỏ trứng và gà sẽ không thể đạp vỏ ra khỏi cơ thể dẫn đến chết trong vỏ, nếu gà nở lông sẽ không bông, khối lượng thấp có khi có tật ở chân, mỏ và cổ. Ẩm độ thích hợp cho gà nở có khối lượng đạt 60 – 61% so với khối lượng trứng.

(*) Các thao tác kỹ thuật khác:

– Đảo trứng: tránh cho phôi dính vào vỏ làm cho quá trình trao đổi chất được cải thiện đồng thời có tác dụng làm cho phôi phát triển tốt nhất, đặc biệt quan tâm ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa. Đảo trứng cũng là cách để điều hòa nhiệt độ, độ ẩm và không khí ở tất cả mọi vị trí của trứng.

– Phương pháp đảo trứng: Trứng được đảo một góc 90 độ và đảo 2 giờ/lần. Ngưng đảo trứng từ ngày thứ 18 sau khi ấp trứng.

– Soi trứng:

+ Kiểm tra loại bỏ những quả trứng trắng, trứng chết phôi để tiết kiệm diện tích máy, đồng thời tránh ô nhiễm và xác định thời điểm phôi chết để có biện pháp cải thiện chế độ ấp hoặc chất lượng trứng giống tránh thiệt hai không cần thiết.

+ Dụng cụ soi trứng: óng đèn đặt trong hộp gỗ, hộp carton hay giấy báo quấn tròn có lỗ tròn đủ để ánh sáng lọt qua chum kín trứng.

– Phương pháp chọn và loại trứng khi soi: trong quá trình ấp cần soi trứng 3 lần vào các thời điểm ấp như sau:

+ Lần 1: lúc 6 ngày để biết được trứng có phôi (có các mạch máu bên trong trứng tỏa ra ngoài từ một đốm nhỏ đen gọi là phôi, phôi di chuyển bên trong trứng), loại bỏ trứng không phôi và chết phôi qua các đặc điểm sau: trứng trong suốt, xoay trứng thấy lòng đỏ và lòng trắng lẫn lộn. Phôi nhẹ nằm lên sát mặt vỏ trứng, nhìn rõ tâm phôi. Hệ thống mạch máu phát triển yếu, mờ nhạt. Đôi khi buồng khí khá lớn. Trứng bị chết phôi, khi xoay trứng phôi di động nhanh, có vết đen nằm sát buồng khí, mạch máu sẫm, vòng máu chạy ngang.

+ Lần 2: lúc 11 ngày, phôi sống giống như lúc 6 ngày tuổi tuy nhiên phôi lớn hơn nhiều và di chuyển bên trong trứng với động tác mạnh mẽ hơn, loại tiếp những trứng chết phôi qua đặc điểm như sau: phôi không chuyển động, trứng có màu nâu sẫm do mạch máu bị vỡ, máu đen, vỏ trứng lạnh.

+ Lần 3: lúc 18 ngày loại bỏ những trứng chết phôi và trứng thối qua các đặc điểm sau: khi soi trứng có màu sáng hơn (trứng không phôi, trứng chết phôi sớm). Các trứng vỏ rạn nứt, vỏ sùi bọt nâu hoặc có màu đen (trứng thối).

– Chú ý:

+ Lấy khay trứng ra khỏi máy và đưa vào phòng kiểm tra (phải tối và kín gió).

+ Đặt khay trứng vào phía bên phải đèn soi, bên trái đặt khay không.

+ Loại bỏ trứng chết phôi, trứng dập vào khay không. Soi hết khay trứng, kiểm tra đếm số trứng chết phôi và xếp lại khay trứng có phôi đưa vào máy ấp.

+ Soi trứng phải nhanh, hạn chế trứng bị mất nhiệt, phòng soi trứng phải ấm.

+ Khi soi trứng lúc 6 ngày, khi soi phải xoay quả trứng mới thấy phôi.

+ Khi soi trứng lúc 11 ngày phải soi đầu nhọn của quả trứng, cần chú ý xem màng niệu nang đã khép kín chưa.

– Chuyển trứng sang máy nở

+ Đối với máy ấp đơn kỳ: sau khi ấp khoảng 21 ngày trứng bắt đầu khẩy mỏ, khi có khoảng 10% trứng đã khẩy mỏ thì chuyển sang máy nở.

+ Đối với máy ấp đa kỳ: Khi trứng đã ấp được 18 ngày thì chuyển trứng sang máy nở

– Lấy gà ra khỏi máy:

+ Trước khi lấy gà ra khỏi máy cần tắt công tắc cho bộ phận tạo độ ẩm ngừng hoạt động.

+ Lần lượt rút khay gà ra khỏi máy, đặt lên bàn rồi tiến hành chọn gà.

+ Nhặt trứng không nở ra khay.

+ Khi đã đưa hết gà ra khỏi máy thì tắt máy để thu dọn vệ sinh, cọ rửa và xông khử trùng.

Chú ý: Gà con nở ra để lâu trong máy không cho ăn uống được sẽ bị khô chân khó nuôi. Do đó ta phải đưa gà con ra khỏi máy ấp sang ô úm trước 6 giờ.

  Anh Hoàng Thắng đang kiểm tra máy ấp trứng gà rừng tại trang trại NTC

2.5. Lai tạo gà rừng

Chọn giống: ta có thể lai gà rừng với gà ác, gà rừng với gà tre thậm trí lai cả với gà Ri tạo ra con lai có hình dáng tương đồng với gà rừng.

2.6. Công tác tác thú y và biện pháp phòng bệnh cho gà.

2.6.1. Phòng bệnh

– Thường xuyên dọn vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tẩy uế, sát trùng.

– Chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát, khô.

– Tiêm phòng vacxin đầy đủ.

– Thường xuyên vệ sinh máng ăn, máng uống.

– Mùa đông che chắn giữ ấm cho gà mùa hè tạo thoáng mát cho chuồng nuôi.

– Khi thấy gà có biểu hiện ủ rũ cần phải tách ra khỏi đàn để điều trị tránh lây nhiễm cả đàn.

2.6.2. Vacxin và tiêm phòng.

– Sau khi tiêm phải sau 7 – 21 ngày vacxin mới có tác dụng gà mới có thể miễn dịch.

– Vacxin chỉ có tác dụng trong 1 thời gian nhất định nên cần phải tiêm nhắc lại.

– Chú ý:

+ Với vacxin ngoại thì 6 tháng tiêm lại theo định kỳ, đối với vacxin của Trung Quốc thì 3 tháng tiêm lại theo định kỳ.

+ Trong quá trình tiêm vacxin có thể thay đổi tùy thuộc vào sức khỏe của gà, bệnh dịch, thời tiết…

+ Lắc kỹ vacxin trước và trong khi sử dụng.

+ Vacxin mở ra chỉ sử dụng trong ngày dư thừa phải hủy bỏ.

– Dùng vitamin để tăng cường sức khỏe cho gà.

– Phòng bệnh:

+ Đường tiêu hóa: oxyteracilin, chloramphenicol…

+ Đường hô hấp: tyrosin, tyamulin…

 

Nha Kỹ Thuật Và Kingbee 219

Kính gữi quý NT và Gia Đình Nha Kỹ Thuật:

38 năm sau chiến tranh Việt Nam, niềm mơ ước nay đã thành sự thật, Kingbee Đại Úy Vương Văn Ngọ mong mõi gặp lại quý Chiến Hữu Kingbee và Gia Đình Nha Kỹ Thuật. Trong thời gian lưu lại tại Hoa Kỳ Kingbee Vương Văn Ngọ sẽ ở vài ngày với Lôi Hổ Lâm Ngọc Chiêu và vài ngày với Kingbee Dương Ngọc Như

Ngày 14 tháng 7 thăm viếng anh em NKT và Kingbee Ngọ sẽ về lại Việt Nam vào ngày 20 tháng 7 năm 2013.

Đính kèm chương trình họp mặt:

Cựu Đại Úy Kingbee Vương Văn Ngọ

3:30 PM Thăm viếng anh em NKT tại tư gia anh Lê Quang Hiền. (Westminster, CA)

3:45 PM Chụp ảnh lưu niệm / Trao quà lưu niệm

4:00 PM Di chuyễn sang Nhà Hàng Hồng Ân Bò 7 món góc Brookhurst và Westminster

4:30 PM Tiệc họp mặt Kingbee Vương Văn Ngọ tại Nhà Hàng Hồng Ân

Ngày 10-07-2013 đến ngày 15-07-2013 tôi qua Phi Đòan 219, ở nhà chú Như, đi thăm vài người bạn ở PĐ,

Ngày 13 (thứ bảy ),họặc 14 (chúa nhật ) tháng 07-2013 tôi nhờ anh Quỳnh (219 ), và anh Hòa (NKT ) tổ chức cho tôi được gặp mặt anh em hai đơn vị 219, NKT, nhe, gọn , càng đông càng vui, xin cám ơn anh Quỳnh và anh Hòa trước Đơn vị cuối cùng tôi biệt phái trại FOB (Thời gian năm 1969 KingBee biệt phái lâu dài chỉ có trại FOB-2 còn gọi là Chiến Đòan 2 Xung Kích có trại B-15 ), tôi ở nhà chú Chiêu, đi thăm các anh em NKT.

HỒNG ÂN – BÒ 7 MÓN RESTAURANT

9862 Westminster Ave. Suite B Garden Grove (CA), California, United States 92843

CÁC MÓN ÐẶC BIỆT * Gỏi Bò, Tôm Hồng Ân * Bò Nhúng Dấm * Bò Nướng Vỉ * Bò Mỡ Chài * Bò Lá Lốt * Bò Chả Ðùm * Cháo Bò * Mực Nhúng Dấm * Tôm Nhúng Dấm * Mực Nướng Vỉ * Tôm Nướng Vỉ * CÁ NƯỚNG DA DÒN

DÊ * NAI * HEO RỪNG NƯỚNG VỈ CÓ BEER & WINE

Description

CÁC MÓN ÐẶC BIỆT * Gỏi Bò, Tôm Hồng Ân * Bò Nhúng Dấm * Bò Nướng Vỉ * Bò Mỡ Chài * Bò Lá Lốt * Bò Chả Ðùm * Cháo Bò * Mực Nhúng Dấm * Tôm Nhúng Dấm * Mực Nướng Vỉ * Tôm Nướng Vỉ * CÁ NƯỚNG DA DÒN

DÊ * NAI * HEO RỪNG NƯỚNG VỈ CÓ BEER & WINE

Hours of work

GIỜ MỞ CỬA: Mon-Thu: 3pm – 10pm Fri-Sun: 11am – 10pm

Locations

HỒNG ÂN BÒ 7 MÓN 9862 Westminster Suite B, Garden Grove, CA 92843 (Góc Brookhurst, trong khu Thương Xá Tam Ða và 99 cent store) 714.534.5384 TOLL FREE: 1-866-ÐI HỒNG ÂN (1-866-344-6642)

Bay ngang nhìn thấy lính mình bị vây

AUTO đáp xuống cứu người lâm nguy

ĐẢNH DU bất chấp hiểm nguy cứu người

Cứu người LÔI HỔ chiến trương TAM BIÊN

NT Lê Minh, NT Đoàn Kim Tuấn, NT Trần Ngọc Thạnh, NT Bùi Văn Thiện 

Kingbee Dương Ngọc Như, NKT Phạm Hòa, Kingbee Phạm Văn Thận, Kingbee Đặng Quỳnh

NT Bùi Văn Thiện và Kingbee Lý Hạnh

Vùng Trời Biên Giới Kingbee và Toán Xâm Nhập 

Nha Kỹ Thuật và Kingbee Nguyễn Hiền Nhơn D9H10 NKT Dallas 

Anh Chị Kingbee Lương Ngọc Ánh và Toán Xâm Nhập D9H10 NKT 

NKT Phạm Hòa và Kingbee trong chuyến viếng thăm Kingbee Kiệt

SOAR Las Vegas / Picture of the Year

Kingbee Nguyễn Hiền Nhơn và NKT Lương Văn Lập /

Tiền Doanh 2 Hậu trạm D9H10 Dallas 

Kingbee Phan Văn Phúc ( Dù) trong chuyến thăm Nam California

Kingbee Nguyễn Quý An Xuân Vùng Trời Biên Giới 2013

Nghi Thức Thu Quốc Kỳ VNCH cho NKT Trần Việt Huệ

NKT và Kingbee Trần Khánh trong chuyến thăm Nam Cali

Lễ Phủ Quốc Kỳ VNCH cho NKT Trần Việt Huệ / Kingbee và NKT

Kỹ Thuật Nhận Dạng Gà Rừng Thuần Chủng

– Đầu nhỏ, mồng, tích và dái tai tương đối nhỏ. Màu dái tai tương tự như gà rừng trống. Thân thon dài như hình thuyền và chân tương đối dài, màu chân tương tự như gà trống.

– Khuôn mặt thon nhỏ nhưng không dài, vào mùa sinh sản gà mái mặt đỏ au, đầy sức sống. Sau mùa sinh sản mặt gà mái sẽ nhợt nhạt.

– Màu mắt nâu vàng.

– Lông: gà rừng mái trưởng thành thường có màu nâu sẫm. Lông bờm nâu hanh vàng xen lẫn những vạch đen. Lông ức và vùng xung quanh hậu môn có màu nâu nhạt.

– Mào nhỏ gần như không thấy được khi nhìn xa. Mặt trơn láng, không có tích.

– Chân: chân tròn màu xanh ngọc, đen xanh, xanh lục hay xanh vàng.

– Cân nặng trung bình 500g – 600g.

Gà rừng mái

Hiện nay trang trại gà rừng đang triển khai mô hình phối hợp với các hộ dân tham gia nuôi gà rừng với rất nhiều chính sách hỗ trợ như:

– Cung cấp giống gà rừng thuần chủng (loại F1, F2) cho bà con nông dân.

– Hỗ trợ một phần tiền mua con giống gà rừng.

– Hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật nuôi gà rừng cho hiệu quả cao nhất.

– Hỗ trợ tư vấn thiết kế chuồng trại nuôi gà rừng.

– Hỗ trợ về giống giun quế kèm chuyển giao kỹ thuật nuôi giun làm thức ăn cho gà rừng.

– Hỗ trợ chi phí vận chuyển.

– Hỗ trợ chi phí đi tham quan mô hình của trang trại nuôi gà rừng .

– Ký hợp đồng cam kết thu mua lại gà rừng cho bà con với mức giá cao và luôn ổn định.

Đến thời điểm hiện tại trang trại đã triển khai phối hợp với 195 hộ dân trên toàn quốc, đem lại lợi nhuận cao cho các hộ chăn nuôi. Đáng mừng hơn rất nhiều hộ dân sau khi tham gia dự án đạt hiệu quả kinh tế cao đã mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô lớn hơn, nhiều hộ thu nhập đạt hàng trăm triệu mỗi năm.

Chăn nuôi gà rừng đang là 1 trong những mô hình đem lại hiệu quả kinh tế rất cao

Ngoài việc đầu tư nuôi gà rừng hiện nay trang trại gà rừng còn có 2 mô hình trang trại nuôi lợn rừng và trồng cây rau rừng trên tổng diện tích 120ha với số đàn lợn trên 12000 con và trên 5ha trồng cây rau rừng. Các hộ dân có thể tham khảo về dự án nuôi lợn rừng và trồng cây rau rừng của trang trại.

Nhận định về nhu cầu thị trường trong những năm tới và việc chăn nuôi gà rừng nói riêng (các thực phẩm sạch nói chung) đang là hướng đi đúng đắn.

– Thứ nhất: Nhu cầu sử dụng các thực phẩm sạch của người dân đang ngày càng tăng cao, đặc biệt trong thời kỳ thị trường tràn lan các thực phẩm không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện nay.

– Thứ hai: Hiện tại trên thị trường ngoài trang trại gà rừng còn có 1 số hộ chăn nuôi với quy mô nhỏ lẻ nên chưa đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường dẫn tới giá thành con giống gà rừng và thịt thương phẩm lên cao.

– Thứ ba: Khi gia nhập TPP (Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương) các sản phẩm về nông nghiệp nói chung và thực phẩm nói riêng như thịt gà, thịt lợn, thịt bò…ở nước ngoài sẽ tràn ngập vào thị trường Việt Nam với giá thành rất cạnh tranh dẫn tới việc chăn nuôi theo mô hình công nghiệp, tự phát, nhỏ lẻ, manh mún của bà con nông dân ta hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Đối với gà rừng thì lại là 1 lợi thế vì gà rừng được nuôi theo mô hình chăn thả tự nhiên, thức ăn chủ yếu là ngô, thóc… và các loại côn trùng dẫn tới chất lượng thịt thơm ngon, săn chắc đáp ứng đúng với nhu cầu của thị trường hiện nay.

2.1. Đặc điểm nhận dạng gà rừng trống

2.2. Giá trị gà rừng trống

Hiện nay trang trại gà rừng đang triển khai mô hình phối hợp với các hộ dân tham gia nuôi gà rừng với rất nhiều chính sách hỗ trợ như:

3. Phương pháp nhận diện gà rừng thuần chủng

3.1 Nhận dạng:

– Thân hình&cân nặng: Gà rừng có thân hình khá giống với gà Kiến (miền Bắc gọi là gà Ri), tuy nhiên trọng lượng thì nhỏ hơn nhiều, trung bình một con gà Rừng trưởng thành nặng khoảng 800 đến 1.000 gram. Đấy là trong môi trường tự nhiên, còn trong môi trường nuôi, thuần dưỡng thì gà trống Rừng trưởng thành có trọng lượng khoảng 700 đến 1.100 gram. Sở dĩ có sự khác biệt nhỏ này là vì trong môi trường nuôi nhốt gà không được chăm sóc kỹ dẫn đến giảm sút về cân nặng, hoặc được nuôi quá cẩn thận mà trọng lượng có tăng lên chút đỉnh. Ngoài ra gà nuôi nhốt và gà trong môi trường tự nhiên còn có một vài đặc điểm khác nhau, khi nào đụng tới chỗ khác nhau tôi sẽ nói tiếp. Hượm!…Gà mái trưởng thành có trọng lượng trung bình từ 500 đến 600gram. Theo tôi trưởng thành ở đây là khoảng 19-20 tháng tuổi. Sở dĩ lấy độ tuổi đó làm độ tuổi trưởng thành là vì ở tuổi đó gà không còn tăng cân được nữa, màu sắc của lông gà cũng đã đi vào ổn định.

– Khuôn mặt: Gà rừng có khuôn mặt thon nhỏ nhưng không dài, mỏ thẳng-màu sắc mỏ phụthuộcautolinker.com autolinking image vào màu sắc của chân gà-có thể là nâu hơi trắng hoặc vàng hơi xanh. Nếu mỏ gà quá cong và là mỏ ba lá thì chắc chắn là gà đã lai tạp. Vào mùa sinh sản gà mái mặt đỏ au, đầy sức sống! . – Mắt: Gà rừng trống thường có mắt màu đỏ, nâu vàng là mắt gà mái. Nếu gà có mắt màu trắng hoặc mắt ếch (đen), mắt hoa đích thị đó là gà không rặc rừng.

– Mồng gà: Gà rừng duy nhất chỉ có mồng lá (mồng cờ).

Màu sắc của mồng đỏ hồng khi gà sung mãn, thay lông hoàn thiện. Nếu mồng gà có màu đen là gà chưa sung mãn hoặc là đang bị bệnh hoặc con gà đó là gà lai với gà Ác (gà Ri). Giai đoạn gà thay lông, mồng gà Rừng sẽ giảm khoảng 1/3 kích cỡ; mồng gà xẹp lại chứ không căng phồng như lúc sung mãn nữa; màu của mồng sẽ không còn đỏ hồng nữa mà chuyển sang màu đỏ tái nhợt nhạt, hoặc đỏ bầm ở cuối mồng. Một số ý kiến cho rằng: “Khi gà Rừng thay lông mồng sẽ tiêu mất hoặc nhỏ lại chỉ còn bằng mồng gà mái” thật ra điều đó là không đúng với thực tế. Nếu phát biểu trên là đúng thì: 1. Gà mái có mồng rất to (để cho mồng bằng khoảng 2/3 mồng gà trống). 2. Khả gà trống có khả năng tiêu giảm kích cỡ của mồng đáng kể, kiểu như ta có thể thổi hoặc để xẹp 1 cái bong bóng. Theo tôi biết thì: 1. Mồng và tích gà mái rất nhỏ, gần như không có. 2. Chưa có nhà khoa học (cái nhà này sẽ nói sau) nào chứng minh gà trống Rừng có khả năng đó. Từ 1&2 ta có thể nói ý kiến trên là ….các bạn tự kết luận.

– Tích&tai: Cần phân biệt tích và tai, tích: là phần da thòng dài, nằm dưới mỏ dưới của gà, giữa 2 tích là hầu gà (con gà rừng nào có dây hầu rõ ràng thường là con gà hay, khoẻ mạnh), tai: là phần da màu trắng, nằm phía dưới lỗ tai của gà.

Gà trống rừng có tích dài thòng nhưng không quá to, có tai màu trắng. Gà mái tích rất nhỏ, hầu như không có tích; tai gà mái rừng cũng có màu trắng nhưng rất nhỏ so với tai gà trống. Lưu ý: Tai gà rừng có màu trắng nhưng nếu trong quá trình nuôi tai gà bị tổn thương(thưòng là đá nhau) thì chỗ tai trắng đó sẽ không còn màu trắng nữa mà sẽ chuyển sang màu đỏ nhợt nhạt, do các sắc tố làm trắng da của vùng da đó vẫn còn. Các bạn nếu nuôi gà rừng để làm cảnh thì không nên để hoặc cho gà rừng đá nhau,vì như thế sẽ làm cho con gà cảnh mất đi vẻ đẹp vốn có của nó, đó là chưa kể lúc gà đã ra đủ cựa thì các bạn có “cơ may” được ăn thịt gà rừng.

– Lông: Gà rừng duy nhất chỉ có màu lông tía đẹp (miền Bắc gọi là Đều) đối với gà trống,

Tuy nhiên màu lông gà có thể đậm hay nhạt tuỳ theo vùng miền và tuỳ con gà nữa, thường thì gà miền Nam có màu nhạt hơn 1 tí so với gà miền Trung và miền Bắc; gà chân xanh đá có màu tía đậm hơn so với gà chân xanh vỏ đậu nhưng những sự khác biệt trên về màu lông là không đáng kể. Cũng cần phân biệt giữa màu tía đẹp và màu cà rốt vì nếu là gà cà rốt thì chắc đã lai với gà khác rồi. Chỉ những chuyên gia giàu kinh nghiệm về gà mới nhận ra được. Còn một vấn đề về lông nữa, đó là “chuyện thay lông của gà và đánh giá độ thuần chủng của gà rừng”. Theo một số ý kiến nói rằng: “Vào mùa thay lông gà rừng THAY bộ lông sặc sỡ bằng bộ lông ngắn cũn, xấu xí. Các nhà khoa học dựa trên đặc đặc điểm đặc trưng này của gà rừng để đánh giá độ thuần chủng của chúng”. Theo tôi ý kiến trên là chưa chính xác. 1. Thật ra gà rừng không có THAY bộ lông sặc sỡ bằng bộ lông xấu xí, khi vào mùa thay lông gà rừng sẽ bị rụng lông 1 cách dần dần, khi những cọng lông nổi bật trên con gà rừng như lông phướng, lông mã trên lưng và trên cánh sẽ bị rụng để cho lông mới mọc ra. Trong lúc những cọng lông nổi bật đó chưa mọc ra thì trông gà rất xấu; quá trình này kéo dài suốt gần 3 tháng, có lẽ vì thế mà mọi người nhầm tưởng nó THAY bộ lông dài bằng bộ lông ngắn, xấu xí. Còn các “nhà khoa học” thật ra họ cũng chỉ là nhà nghiên cứu giống như chúng ta mà thôi, mức độ am hiểu về gà rừng có thể cao nhưng chưa chắc họ có lòng say mê, yêu quý gà rừng thật sự nên có thể họ chỉ dừng lại ở mức Cao chứ chưa Thật sâu sắc. Xin lỗi các “nhà khoa học”!

– Chân gà: Chân gà rừng là chân tròn, không có chân vuông. Màu chân thường là màu xanh đá và chân xanh vỏ đậu. Cựa gà rừng ra rất nhanh, khoảng 10 tháng tuổi cựa đã dài hơn 1cm rồi nhưng gà hơn 1 năm tuổi thì mới nhọn cựa, cá biệt có con 2 năm tuổi mới nhọn cựa. Gà rừng chỉ có 4 ngón chân như gà ta.

– Đuôi gà: Gà rừng mái không có lông phướng (2 cọng lông dài nhất, mọc chính giữa đuôi gà) mà chỉ có gà trống mới có. Đuôi gà rừng hơi vổng nhưng không quá vổng (thường ko quá 450, hai cọng lông phướng dài và cong. Đuôi gà túm lại chứ không xoè ra. Lông phướng dài hay ngắn, dài bao nhiêu là tuỳ thuộcautolinker.com autolinking image vào gen của con gà chứ không thể nói lông phướng gà của tui dài, cong nên là gà rừng rặc còn gà của anh đuôi ngắn nên là gà rừng+….! Điều này bạn nào chơi chim chích choè lửa thì biết, cũng là chim ngoài tự nhiên nhưng có con đuôi dài, con đuôi ngắn và đôi khi sự khác biệt về chiều dài đuôi là gấp đôi. Sở dĩ gà rừng trong tự nhiên bị con người bắt về nên nhát và bản tính sợ người còn mãi trong nó nên đuôi gà rừng mà các bạn thấy không vổng hoặc ít vổng lên. Còn gà rừng nuôi ở nhà, qua thuần dưỡng nhiều thế hệ trở nên dạn người, gà không còn sợ hãi nữa nên phong thái rất tự nhiên, thể hiện sự hùng dũng của nó bằng hình thức: cánh xoè xệ, và đuôi nhổng cao thách thức.

– Đặc điểm sinh sản(tại gia): Khi gà trống đã được khoảng 6 tháng tuổi là bắt đầu gáy te te, 8 tháng tuổi là gáy rành rọt. Khi gà trống bắt đầu gáy là có thể “đạp mái”(hơi thô thiển ^-^) nhưng thường thì gà mái không chịu mấy anh trống này. Gà mái khoảng 7 tháng thì có thể bắt đầu đẻ. Gà nuôi ở nhà thì đẻ không kể mùa nhưng tối đa cũng chỉ 3 lứa/năm. Khoảng từ tháng 7 đến tháng 10 âm lịch gà sẽ thay lông, gà trống sẽ xấu tệ và ở giai đoạn này gà mái cũng không đẻ. Lúc nào mặt gà mái có màu đỏ hồng là báo hiệu sắp đẻ rồi đấy! Nếu thấy gà mái đỏ mặt thì các bạn nên nhốt hết những con gà trống mà mình không có ý định đúc với con mái đó lại. Chỉ thả duy nhất 1 con trống mà ta muốn đúc ra thôi! Cho gà trống ăn sung thì tỷ lệ gà trống thường cao hơn một tý nhưng tốt nhất là nên cho ăn đều nhau như thế gà con mới khoẻ mạnh được, còn trống hay mái rồi thì cũng sẽ có mục đích cả thôi. ^..^!!!

1.2 Tính cách:

Giống như tất cả các loài chim hoang dã khác, gà rừng có bản tính nhút nhát, nếu là gà ngoài tự nhiên chỉ cần thấy bóng người là …biến! Dù bạn có nghe tiếng gáy cách bạn chúng tôi nhưng cũng khó phát hiện được một chú gà rừng trống sặc sỡ chứ đừng nói đến thấy một em gà mái. Ta chỉ vô tình bắt gặp, thường dễ thấy nhất là ở những đám ruộng gần bìa rừng. Vì vào mùa sạ lúa gà sẽ kéo nhau xuống ruộng để ăn lúa mầm. Lúc này nếu ở vị trí thuận lợi ta có thể quan sát cảnh gà rừng ăn trông rất sinh động, cảm giác lúc đó vô cùng phấn khích. Hiện nay hiếm thấy được cảnh đó vì nếu có người thấy gà rừng ăn vào ban ngày thế nào ngay đêm đó cũng có kẻ vác súng đi tìm nơi gà rừng ngủ và ….BÙM…MMM! Chưa kể đến các tay đánh bẫy chuyên nghiệp chuyên lãng vãng nơi bìa rừng với câu hỏi thường trực trên môi: “Dạ! Anh(chị) có thấy gà rừng ra ăn lúa không? Chỉ chỗ em bắn cho” Kích thêm vài câu: “Gà rừng mà phá lúa thì hư phải biết!”. Hic! Chính vì thế gà rừng đã nhát nay còn nhát hơn!

Gà rừng rất hăng đánh nhau, lợi dụng đặc điểm này mà người ta (trong đó có tôi, hehe! Mà tôi thì không đáng kể-chơi cho vui thôi) bẫy bằng cách cột con gà mồi ở giữa và cắm dò hoặc giăng lưới xung quanh. Khi nghe tiếng gà mồi gáy, gà bỗi biết có kẻ xâm phạm lãnh địa và đi tìm để đuổi kẻ đó đi, không ngờ……!

Tag: gà mái rừng gọi trống, cách nuôi gà rừng đẻ, cách nuôi gà rừng mồi, cách nuôi gà rừng mới bẩy về,cách chọn gà rừng mồi hay,cách làm chuồng nuôi gà rừng, cách huấn luyện gà rừng mồi, kỹ thuật chọn lọc gà rừng thuần chủng, phương pháp nhận dạng gà rừng thuần chủng, phân biệt nhận dạng gà rừng thuần chủng, phan biet ga rung thuan chung, mua bán gà rừng giống, trang trại gà rừng giống, cung cap ga rung giong, cung cấp gà rừng giống